Lịch sử phát triển của gậy golf
(GolfViet) - Kể từ khi môn thể thao golf ra đời, người chơi luôn không ngừng cố gắng cải tiến bộ “công cụ lao động”, từ chất liệu, kiểu dáng cho đến tên gọi.
Những cây gậy golf đầu tiên mang tính handmade cao, làm bằng gỗ do chính golfer tự thực hiện. Ngoài ra, nhiều người chơi cũng sớm tìm đến các thợ thủ công lành nghề nhằm tạo ra cây gậy có chất lượng cao hơn. Vua James IV (1473-1513) của Scotland vào năm 1502 từng đặt William Mayne, một thợ làm cung chế tạo riêng một bộ gậy rồi phong ông là “Royal Club Maker”. Đây được coi là thương vụ đầu tiên trong ngành công nghiệp sản xuất thiết bị golf.
Đến những năm 1500, bộ gậy cơ bản gồm “longnoses” - dùng để phát bóng, gậy fairway hoặc “grassed drivers” - trên fairway, gậy “spoons” cho những cú đánh ngắn, “niblicks” tương tự như gậy wedge và “cleek” là tiền thân gậy putter ngày nay. Chúng có phần cán gậy làm từ gỗ tần bì hoặc cây phỉ, trong khi đầu gậy dùng nguyên liệu gỗ cứng hơn như táo, sồi hoặc lê. Giữa đầu gậy và cán gậy được gắn kết bằng một thanh nẹp rồi buộc bằng dây da.
Với sự ra đời của những quả bóng “lông vũ” vào năm 1618, đầu gậy tiếp tục được làm bằng gỗ, dù giai đoạn này công nghệ rèn sắt đã đáp ứng được yêu cầu. Do tốn thời gian, công sức chế tạo và dễ bị gãy, giá thành những cây gậy gỗ được đôn lên rất cao. Từ đó khiến golf trở thành một hoạt động dành riêng cho tầng lớp trên. Bởi vậy mà những người làm gậy luôn thử nghiệm các vật liệu khác nhau để khắc phục hạn chế và tăng khoảng cách cho cú đánh như da, kim loại hay xương động vật.
Quanh mốc 1750, những đầu gậy niblicks hoặc gậy wedge làm bằng sắt từ các cửa hàng rèn địa phương bắt đầu xuất hiện và đưa vào sử dụng. Năm 1826, Robert Forgan, một nhà chế tạo thiết bị ở Scotland đã dùng gỗ hồ đào (hickory) nhập khẩu từ Mỹ ứng dụng vào cán gậy. Vật liệu này nhanh chóng trở trành lựa chọn hàng đầu trên thị trường dụng cụ do nguồn cung dồi dào và độ bền cao.
Năm 1848, bóng golf “guttie” hay gutta perche (phần lõi làm từ nhựa cây hồng xiêm được đun nóng, tạo khối hình cầu đặc tính giống cao su) do Adams Paterson phát minh nhanh chóng làm cho cây gậy chuyên phát bóng longnoses trở nên lỗi thời. Thay vào đó là sự trỗi dậy của bulger, cây gậy tương tự như gậy wood hiện đại.
Hơn 20 năm sau, kỹ thuật rèn thêm bước tiến giúp cho các nhà máy có thể sản xuất đầu gậy sắt hàng loạt, khiến chúng chắc chắn hơn, nhẹ hơn và tốt hơn so với đầu gậy của thợ rèn làm ra. Năm 1908, các rãnh sâu trên mặt gậy được phát hiện giúp tăng backspin và tăng khoảng cách.
Rất nhiều cuộc thử nghiệm nhằm cải tiến thiết kế gậy đã được thực hiện trong những thập kỷ đầu và xuyên suốt thế kỷ XX, dẫn đến sự ra đời của cán bằng thép và graphite có độ chính xác và độ bền cao hơn như thường thấy ngày nay.
Thảo Phạm